CHƯƠNG 9: ĐIỀM BÁO TƯƠNG LAI
Cùng lúc, ở một nơi khác trên nước Anh, trong một căn phòng nhỏ - nơi mà dòng điện quang đủ sức xuyên suốt từng hạt bụi li ti, Eroza ngồi gác chân trên giường với bả vai được băng bó kỹ càng chăm chú nhìn vào người đàn ông già đang lau chùi mấy dụng cụ lấm lem máu.
“Bác Quinn, cháu đã phiền bác.”
“Không gì. Thêm hai lần điều trị, cháu sẽ khỏi hẳn. Nói bác nghe tại sao cháu bị thương nặng đến thế, và còn mất một lượng máu quá lớn?”
Ông dừng hẳn công việc, đưa tay vuốt nhẹ chòm râu bạc, mắt thì vẫn đảo trên đống dao kéo sắc bén của mình.
“Cháu bị trúng kiếm của một tên vampire dòng thuần, trên đường chạy về đây, chắc là vết thương rách sâu nên mất nhiều máu.”
“Hắn tên gì?”
Eroza sợ rằng khai Krizu ra thì biết đâu sẽ liên lụy cả Zenda. Vả lại, cậu cũng không mong hiệp hội hunter dính dáng vô chuyện này, nên chần chừ bằng một lời nói dối:
“Cháu không biết… uhm… chỉ tình cờ gặp.”
“Vampire có khả năng tự chữa lành mọi vết thương trên da, thanh kiếm của tên này có thể tổn hại cháu, xem ra nó được làm từ một loại hợp kim quý hiếm chuyên dùng để trị vampire. Cháu sơ suất quá Eroza, khi chưa hiểu rõ đối thủ thì không nên chạm trán mới phải. May mà cháu còn mạng về đây. Lần sau nhớ cẩn thận.”
“Cháu nhớ. Bác Quinn à, cháu nghe nói tộc chúng ta có một thánh vật là khắc tinh của vampire thuần chủng phải không?”
“Ta thừa thông minh để hiểu cháu hỏi vậy có ý gì. Nhưng đành phải làm cháu thất vọng rồi. Chín đoạn Long Cốt đã bị đánh cắp từ lâu.”
“Bị… đánh… cắp?” - Eroza sửng sốt nhắc lại từng chữ. - “Ai dám đến tộc hunter mà trộm đi thánh vật cơ chứ?”
“Mọi người chỉ biết hắn là một vampire dòng thuần. Nghe cha ta kể lại hắn chính là vampire đẹp nhất mà ông từng nhìn thấy. Mái tóc nâu xoã dài, tung bay theo từng gợn sóng Mặt Trăng gợi lên một sự huyền bí thần thánh. Đôi mắt đỏ bằm lạnh lẽo tựa sói hoang, ẩn chứa bên trong nhiều nỗi đau rạn vỡ. Đặc biệt giữa vầng trán hắn nổi rõ dấu hiệu đáng nguyền rủa từ Judah - kẻ tội nghiệt sâu nặng. Ông nói bất cứ ai cũng sẽ bị hút hồn ngay lần đầu tiên chạm vào khuôn mặt đó. Ta thì không tin mấy, ông tả hắn cứ như một vị thần mà quên rằng hắn là con mồi vốn bị hunter chúng ta săn đuổi.”
Eroza lơ đãng suy ngẫm về kẻ Quinn đang tả, có lẽ hắn cũng đẹp đấy, tiếc là không sao so sánh với Zenda của cậu.
“Dấu hiệu Judah là gì vậy bác?”
Eroza bỗng thắc mắc.
“Nó có hình hai Mặt Trăng dựng đối xứng quanh một cây thánh giá, hệt như lời sám hối của kẻ tội đồ đã phản bội Chúa và hắn chỉ có thể sống u uẩn trong bóng tối cho đến lúc chết. Nó là một dấu hiệu gắn kết vĩnh viễn với lũ vampire dòng thuần ngay khi chúng vừa sinh ra. Một vampire dòng thuần có đến hai hình dạng: một khi chúng khoác lớp vỏ bọc con người, và một khi chúng trở về bản chất của mình. Dấu hiệu này chỉ xuất hiện vào thời điểm chúng trở về hình dạng thật mà thôi.”
Eroza nhíu vầng trán ưu tư:
“Lúc ấy có phải chúng sẽ càng mạnh hơn?”
Cậu lảng sang câu hỏi khác. Vì mục đích của cậu không phải là tìm hiểu tại sao Long Cốt mất, mà là cách gì có thể trị được Krizu.
“Đúng, và cũng càng dễ bị hunter chúng ta đánh mùi hơn.”
“Bác Quinn, ngoài Long Cốt, chắc hẳn còn nhiều biện pháp khác tiêu diệt dòng thuần chứ?”
“Không hẳn.”
Quinn quay đầu sang phía Eroza giải thích thêm:
“Chúng là loại sinh vật vô cùng mạnh mẽ, đối đầu với chúng đâu chỉ riêng hunter chúng ta, còn có cả werewolf. Nhưng thực tế chứng minh chúng vẫn tồn tại qua hàng ngàn thế kỷ dài, nguyên nhân chủ yếu bởi chúng rất khó bị giết, nhất là dòng thuần. Chúng không sợ thánh giá bạc như truyền thuyết đồn đại, lại vô hiệu hóa cả ánh sáng Mặt Trời và cũng chẳng tránh xa tỏi. Dòng thuần ngày càng hiếm không phải tại chúng ta hay werewolf, đó là do thói quen tàn sát đồng loại của chúng. Những hunter có thể săn đuổi dòng thuần cũng đã không còn nhiều. Ở Anh quốc vẫn còn một người. Tuy nhiên hắn là kẻ lập dị, xưa nay không nhận lệnh từ hiệp hội, nên chẳng một ai biết hắn hiện giờ đang ở đâu? Thôi, cháu hãy nghỉ ngơi cho vết thương mau lành. Đừng nghĩ đến chuyện trả thù nữa. Ta cũng sẽ không hỏi những điều cháu còn che dấu.”
“Bác thật nhạy bén.”
Eroza cười khẩy.
“Dẫu sao ta cũng là trưởng lão tộc hunter, một thằng nhóc như cháu gạt được ta sao?”
Quinn nhếch môi cười rồi đi ra khép kín cửa phòng lại. Từ từ trườn dài xuống giường, cậu bắt đầu suy nghĩ miên man, quan trọng nhất vẫn là việc tìm cách hạ gục Krizu. Một trạng thái rối bời quấn lấy Eroza, cuối cùng cũng đưa cậu vào giấc ngủ mệt nhoài.
Bình minh vừa lên, Krizu đã bị lay tỉnh bởi những tiếng đàn rất êm dịu từ bản giao hưởng Valse của Chopin. Cậu không phủ nhận Zenda là một thiên tài piano thực thụ, có điều cậu không phải là người tràn đầy nhiệt huyết với âm nhạc. Krizu tung chăn, cố gượng dậy quơ đại y phục vào và tìm đến chỗ Zenda. Dẫu tâm trí đang bay bổng cùng những giai điệu thoát tục, Zenda vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện của anh trai mình. Cậu khẽ mỉm cười và ngừng hẳn đôi tay trên bàn phím, quay đầu sang phía Krizu chào buổi sáng. Krizu đáp trả bằng một vòng tay ấm áp xen lẫn nụ cười thân thiện:
“Ở Pháp em học về cái này à?”
“Ừ, còn có cả hội họa. Nhưng người thầy piano đầu tiên của em phải kể đến mẹ. Lúc chúng ta còn nhỏ, mẹ vẫn thường cầm tay mình dạy bảo từng phím một, anh còn nhớ không?”
“Dĩ nhiên anh nhớ. Anh nhớ cả những lần giả bệnh trốn học piano cơ. Anh chẳng thích nó chút nào.”
“Và kết quả là hôm nay đến tên gọi của từng phím anh còn quên, huống chi đàn.Thật ra trong lĩnh vực piano, người em ngưỡng mộ nhất là cậu. Mà không chỉ có piano, bất cứ nhạc cụ nào cậu cũng chơi giỏi cả. Cậu là thiên tài của âm nhạc.”
“Anh vẫn luôn thắc mắc tại sao ông ấy lại bị cha trục xuất khỏi gia tộc. Dù ông ấy yêu werewolf, cũng đâu tội lỗi gì?”
Giọng Krizu trầm xuống, cậu kéo tay Zenda đứng dậy với ánh mắt da diết.
“Ừ…”
Zenda lúng túng, lộ ra sự ẩn giấu rất vụng về, và nét mặt đó đã nhanh chóng bị Krizu vạch trần.
“Năm đó, anh theo mẹ ra ngoài mấy ngày, em bảo là cảm thấy mệt nên muốn ở lại. Khi về thì biết được ông ấy đã dọn khỏi Hamyulin và đến ở tại Caseifod này. Anh nghĩ có những điều em đã không nói ra cùng anh.”
“Được rồi, em sẽ kể anh nghe.” - Zenda nhìn Krizu trìu mến. - “Một năm trước khi mẹ chúng ta chết, cha đã sai cậu đến miền Tây kiểm kê vài món hàng cho ông. Bên cạnh đó, ông muốn cậu gặp mặt nữ bá tước Rihane để làm tròn cái hôn sự mà ông cố công sắp đặt. Mục đích của ông là củng cố thêm quyền lực. Cậu vốn không thích việc này, và mẹ cũng đôi lần phản đối kịch liệt, nhưng cha vẫn kiên trì ý kiến của mình. Cha bảo Rihane chỉ là con người, rồi sẽ chết đi rất nhanh và cậu chẳng cần lo phiền gì. Cuối cùng, cậu đành đến Bristol. Đến rồi mới hay nữ bá tước Rihane vừa qua đời vào ít ngày trước. Tình cờ cậu lại gặp được Michael Lycaon trong lúc đi thăm mộ cô. Ban đầu, cậu nghĩ chỉ là một trò vui, không ngờ cậu đã yêu Michael thật và muốn sống cạnh cậu ấy suốt đời.”
“Anh không nghĩ đây là một lựa chọn khôn ngoan.”
Krizu lên tiếng cắt ngang.
“Em thì cho rằng dũng cảm thừa nhận tình yêu của mình không có gì sai trái. Tiếc rằng thuộc hạ của cha bất ngờ đã phát hiện ra họ. Tin tức truyền đến tai cha, cha tức giận vô cùng. Ông cho rằng cậu yêu Michael chính là một sự sỉ nhục ghê gớm cho gia tộc. Ông đã đến Bristol và dùng thủ đoạn chia rẽ họ. Ông cho người giả làm vị hôn thê của cậu, đến gặp riêng Michael dèm pha quan hệ hai người, thậm chí nói rằng cô đã có thai với cậu. Quá đau khổ vì nghĩ rằng mình bị lừa dối, Michael đâm cậu bằng chính cây kiếm Rahanle mặc cho cậu có giải thích thế nào. Nếu không phải cậu kịp thời trở về đây tìm mẹ, có lẽ đã không qua khỏi lần đó.”
“Thanh kiếm của ông ấy và anh vốn là một cặp, chúng được rèn nên từ một loại hợp kim đặc biệt chuyên dùng để trị vampire. Thế nhưng đối với dòng thuần, có lẽ không đến nỗi mất mạng. Tại sao thương tích của ông ấy lại trầm trọng đến vậy?”
“Vì một lòng lấy mạng cậu, Michael tẩm máu mình lên Rahanle và dùng nó đâm vào ngay tim cậu. Máu của vampire và máu của werewolf vốn kiêng kỵ nhau, nó khiến cho sức mạnh của thanh kiếm tăng lên gấp đôi. Sau khi cậu biết tất cả là do cha gây ra, cậu đã tức giận đến tìm cha. Hai người tranh cãi rất nhiều, có cả xô xát, và cha bị cậu đâm cho một kiếm. Nhưng cậu không có ý định lấy mạng cha nên vết thương không sâu. Đêm đó anh theo mẹ ra ngoài, chỉ còn em ở trong lâu đài, em không biết làm sao ngăn cản họ. Sau cùng đành bất lực nhìn cậu bỏ đi. Cha nói nếu cậu có dũng khí bỏ đi, thì đừng dính dáng gì đến gia tộc Kenshi nữa. Và cha đã tuyên bố truất quyền thừa kế của cậu trước giới quý tộc.”
“Ông cậu này yêu đúng người nhỉ… một kẻ thật độc ác, mà cha chúng ta nghĩ kỹ còn độc ác hơn.”
Krizu nhếch mép khinh khỉnh.
“Anh đấy… suốt ngày cứ chống đối cậu.”
Zenda cười không ngớt, hai mắt cậu sáng rỡ như hai vì sao đêm. Đương lúc cả hai đang đùa giỡn, có tiếng vỗ cánh chợt vang lên và ít phút sau họ nhìn thấy Vin bay sà xuống trên thành đàn piano.
“Vin, chuyện gì thế?”
Krizu ngưng cười nghiêm túc hỏi.
“Chủ nhân, cậu của ngài đã trở về Hamyulin”
“Còn gì vui hơn thế, chúng ta mau trở về đi anh.”
Zenda hồ hởi níu tay áo Krizu. Dường như có điều chưa nói hết, Vin ấp úng ngắt lời Zenda với cái nhìn lo ngại:
“Nhưng… bác Shen…bác ấy đang bị bệnh nặng… e là khó qua khỏi.”
Sắc mặt Zenda và Krizu đều trở xấu, trong ánh nhìn của họ tràn đầy sự lo ngại. Buổi trưa hôm đó, họ đã cho xe quay về Hamyulin ngay.
Những ngọn nến lờ mờ soi nhợt nhạt qua một căn phòng giản dị, nơi có một chiếc giường bằng đá trắng đang nằm lạnh lẽo cùng cái thể xác yếu đuối của Shen. Sau khi từ miền Tây trở về, ông đã bị ho suốt, đến nỗi khạc ra máu. Mọi thứ bắt đầu mờ dần qua mắt ông. Tương lai nối liền cùng quá khứ. Ông nhớ lại vợ con mình và cảm thấy như họ đang vẫy gọi ở một nơi không xa. Sự mơ màng của ông đột nhiên bị khuấy động bởi tiếng gọi gần kề của Zenda. Cố mở mắt mệt nhoài, ông đáp trả bằng cái giọng run rẩy:
“Cậu chủ, cậu đã về.”
“Bác Shen, sao bác ra nông nỗi này?”
Zenda nắm lấy đôi tay gầy guộc của ông sốt ruột hỏi.
“Con người là vậy cậu chủ à, tuổi già đến rất nhanh và đi cũng rất mau. Bệnh tật có chờ đợi ai bao giờ đâu, cái chết cũng thế?”
“Shen, hãy để tôi giúp ông được bất tử.”
Krizu bỗng lên tiếng, nhưng cậu nhận thấy sự phản đối ngầm trên khuôn mặt Shen:
“Cậu chủ, tôi bằng lòng với tuổi thọ con người, tôi thiết nghĩ cũng đến lúc tôi phải đi tìm lại những gì tôi đã mất trong thế giới này ở một thế giới khác. Vậy nên các cậu đừng lo lắng, đừng đau buồn, việc gì đến trước sau cũng phải đến.”
“Bác Shen, sự sống với bác khó khăn đến vậy sao?”
Shen khẽ mỉm cười thay cho một câu trả lời thầm lặng. Cả Krizu và Zenda đều hiểu ý ông. Họ tạm rời phòng để ông yên tĩnh nghỉ ngơi. Ra ngoài vườn hoa, Zenda đứng thẫn thờ hồi lâu với một nỗi buồn khó tả. Cậu cảm thấy sự sống thật mong manh. Cậu rất muốn níu giữ Shen bên cậu và Krizu mãi, nhưng làm vậy có vẻ quá ích kỷ với ông. Ông đã không còn một người thân nào trên đời. Ông vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay là vì ông muốn trả ơn cho họ. Có lẽ đã đến lúc họ nên cho ông được giải thoát. Và cũng có lẽ, ở thế giới bên kia, ông sẽ gặp lại những người thân của ông, đó mới là mong ước ông ấp ủ bấy lâu.
“Hãy để Shen ra đi em à.”
Krizu ôm chặt cậu vào lòng an ủi.
“Em hiểu, nếu em mất đi anh, em cũng không thể sống tiếp nổi, một lòng chỉ muốn chết để có thể gặp lại anh. Vậy nên bác Shen đã kiên cường lắm rồi, bác phải gánh chịu nỗi đau mất người thân suốt bao nhiêu năm dài. Đã đến lúc bác ấy cần được giải thoát.”
“Thế tại sao em lại buồn?”
“Em không rõ. Chắc là vì nhất thời chưa thể chấp nhận việc bác Shen sẽ rời xa chúng ta. Anh cũng có tình cảm mà đúng không?
Krizu thở dài, cậu ngước nhìn về một vùng trời xa xăm nói buồn rầu:
“Toà lâu đài này ngày một thêm lạnh lẽo.”
“Yên tâm, có em mãi ở bên cạnh anh. À…” - Zenda như sực nhớ điều gì. - “Vin chẳng phải nói cậu đã trở về sao? Tự nãy giờ không thấy cậu đâu hết.”
“Ông ấy có bao giờ chịu ngồi yên một nơi. Chắc là lại đi vòng vòng làm những chuyện vô duyên rồi.”
Zenda bị câu nói của Krizu chọc cười, sắc mặt mới dần dịu hơn.
“Chúng ta đi tìm cậu nào.”
Gần Hamyulin vài dặm về phía Bắc có một thị trấn nhỏ bình dân. Giữa trấn nổi lên một quán café rất đạm bạc với những dây hoa leo tim tím. Đó là nơi tập họp thường xuyên của những con người thanh lịch, thích không gian yên ả và những làn khói coffee thơm nồng nàn. Ở một chiếc bàn cạnh cửa sổ, những giọt mưa đầu mùa đang tí tách rơi ngoài hiên. Cái lạnh se cùng hương coffee trên tay khiến vị khách đang ngồi tại chiếc bàn này híp mắt cười hài lòng. Nhấp xong vài ngụm, cậu đặt lại tách coffee xuống đĩa và đưa tay trái rút ra một lá bài trong xấp bài trải trước mặt. Tình tứ nhìn cô gái ngồi đối diện, cậu giở lá bài lên rồi bắt đầu giảng giải:
“Devil… lá bài này là một điềm báo tốt trong tình duyên. Nó biểu lộ em sắp gặp được người ưng ý của mình. Và tình yêu hai người hứa hẹn ngày đơm hoa kết quả.”
Cô gái tỏ vẻ e lệ:
“Hẳn là em gặp rồi.”
“Em không định nói anh đấy chứ?”
Mặt cô gái đỏ bừng, cô xếp lại cây quạt vờ nhìn ra ngoài cửa sổ, tránh chạm vào đôi mắt đen lay láy ẩn sâu một sức quyến rũ kỳ lạ từ chàng trai. Chàng trai buông lá bài, với tới nắm lấy đôi tay cầm quạt của cô gái với giọng điệu ngọt ngào:
“Katina, em biết chăng? Từ lần đầu gặp em, anh đã thiết tha yêu em rồi. Em là cô gái đẹp nhất trong lòng anh. Em hãy làm người yêu của anh nhé.”
Cô gái mỉm cười thẹn thùng:
“Em cũng yêu anh Olardo.”
Những giây phút lãng mạn chưa kịp tiếp diễn thì một giọng nói chát chúa đã vang lên phá tan:
“Cha, mẹ bảo tụi con đi tìm cha. Hoá ra cha đang ở đây à?”
Krizu cười chế giễu. Phản ứng của cô gái thay đổi ngay, cô lấy cây quạt đập mạnh xuống bàn:
“Anh dám lừa tôi, đồ đểu.”
Olardo chẳng màng giải thích, cậu dửng dưng nhận lấy một tách coffee tạt vào mặt và bình đạm nhìn theo dáng cô khuất xa.
“Quà chào mừng ông cậu khá là hậu hĩnh đấy Krizu. Ta mà có được đứa con như cháu thà cắm đầu xuống sông chết còn hơn.”
Olardo lấy khăn giấy lau sạch khuôn mặt với nụ cười đắc ý, cố tình lườm mắt thách thức Krizu. Zenda lắc đầu, vội ngồi xuống xen vào cuộc chiến tranh lạnh:
“Cậu à, cháu nhớ cậu lắm, đã lâu rồi cậu không về thăm tụi cháu đấy.”
Olardo giơ cao hai tay bấu nhẹ vào má Zenda:
“Cháu vẫn đáng yêu như ngày nào, bảo bối à? Ta rất nhớ hai cháu, tiếc là chỉ có thể về thăm hai cháu chốc lát thôi. Ta còn vài việc chưa giải quyết, không thể ở lại. Ta biết về chuyện tám chuyến hàng của chúng ta bị giữ lại tại cảng Bristol rồi, có điều chẳng sao đâu. Gia tài chúng ta thừa quá mà, mất một ít chẳng suy suyển gì.”
Olardo nhếch mắt châm chọc Krizu khiến cậu giận sôi máu:
“Nếu ông không có đóng góp gì cho gia tộc, phần hậu sự mai này ông tự lo nhé!”
“Thằng nhóc này, tính toán với cả cậu ruột luôn đấy. Nhưng thôi, không ai hiểu Michael bằng ta, cậu ấy là người rất nguyên tắc. Vài hôm nữa tự nhiên sẽ đem hàng trả. Miễn lo về chúng đi.”
Olardo nâng tách coffee nhấm nháp rồi nói thêm:
“Mọi thứ ở Hamyulin không có gì thay đổi, tiếc là màu hoàng hôn đã không còn đẹp như xưa, nó trông ảm đạm và vắng lạnh muôn vàn. Bù lại, cậu thích vườn hồng trắng của cháu Zenda à?”
“Sao ông không nghĩ nó là của tôi nhỉ?
Krizu bắt bẻ.
“Đến cả Chúa cũng không tin nói chi ta. Cây cháu trồng lên hoa nổi sao?”
Cười no nê một hồi, Olardo dần nghiêm mặt lại. Cậu đưa tay rút ra một lá bài khác đặt trên bàn:
“Khuôn mặt các cháu có nhiều nét vẫn giống hệt lúc còn nhỏ, vừa gặp là ta nhận ra ngay. Mới đầu ta còn sợ là sẽ khó biết được. Gặp cũng gặp rồi, ông quản gia thì giao lại cho các cháu chăm sóc, ta phải đi. Lần sau nếu trở về ta sẽ ở lâu hơn. Đây xem như món quà cho các cháu.”
Ánh mắt Olardo nhìn về phía lá bài rồi đứng dậy. Krizu và Zenda đều hiểu tính cách Olardo, họ không nài nỉ cậu ở lại, có nài nỉ cũng vô ích, họ chỉ âm thầm cầu chúc cậu lên đường thuận lợi. Khi Olardo đã bước ra khỏi cửa quán, Zenda mới lật ngửa lá bài. “Tower” - Cậu bàng hoàng nhìn vào nó và lặng người đi.
“Nó có ý nghĩa gì?” - Krizu đảo mắt hỏi
“Niềm tin sụp đổ… anh à, nó là lá bài của sự bất hạnh.”
“Bói toán thôi, anh không tin đâu, em đừng lo nghĩ nhiều.”
“Ừ.”
Zenda trả lời suông để Krizu vui lòng, thực chất cậu biết Olardo chưa từng bói sai, vì thế lòng riêng tràn ngập những dự cảm bất an.
------------------------------------------
“Zenda, cháu hãy rút một lá bài trong xấp bài trên tay cậu đi”
“Hanging man… nó có nghĩa là gì thế cậu?”
“Đôi khi chúng ta phải tự đảo ngược chính mình mới nhìn rõ được thế giới này, ở một khía cạnh khác, nó khuyên cháu hãy trao ra sự hy sinh.”
Zenda giật mình tỉnh dậy, mồ hôi lạnh toát đầy cơ thể cậu. Một giấc mơ quá mông lung, cậu không thể nhìn rõ được gì, chỉ ngoại trừ những âm thanh trong trẻo cứ nhắc đi nhắc lại một cách dằn xéo.
“Cậu không hỏi nửa lời về cái chết của cha, chắc là cậu đã biết rồi, hoặc vả cậu không quan tâm? Nhưng tại sao mình lại nằm thấy giấc mơ này, lá bài Tower chính là điềm báo thứ hai chăng?”
Hơi đêm lạnh đến buốt da, Zenda xiết chặt hai tay vào nhau nghĩ ngợi miên man. Cậu không cách nào vỗ lại giấc ngủ nên những phiền muộn cứ luẩn quẩn mãi trong đầu, đến độ trời sáng lúc nào cũng không hay. Tạm gác mọi chuyện sang một bên, Zenda uể oải bước ra khỏi giường và tự soi mặt vào trong gương. Cậu cố gắng tìm kiếm một thứ gì đó đại loại như nụ cười để cổ vũ mình phấn chấn hơn. Vô tình liếc mắt sang lọ hoa gần kề, Zenda trông thấy những cành Pascali đều đã héo úa hết. Ít nhất cũng có một công việc để làm, cậu thay áo rảo bước ra vườn, cắt lấy một số cành tươi còn nguyên vẹn lớp sương sớm. Đang lúc cặm cụi, Zenda chợt nghe những tiếng bước chân lạ đến gần phía sau mình. Ngoảnh đầu lại nhìn, cậu ngạc nhiên khi nhận ra Phalos và nó đứng cách cậu chưa đến một gang tay.
“Chào anh, khi nãy em gõ cửa hoài mà không ai mở nên hơi vô lễ bước vào, anh không trách chứ?”
Phalos nhoẻn miệng cười tươi.
Zenda cũng đáp trả lại cậu bé bằng một nụ cười và câu nói đầm ấm:
“Không sao. Anh không biết anh Krizu đang ở đâu, em hãy đi vòng quanh tìm.”
“Để sau cũng được. Anh thích hoa hồng Pascali à?”
Phalos vừa nói vừa tiến sát Zenda hơn, vờ như không chú tâm, Zenda nhoài người ra nơi khác cắt hoa để nới rộng khoảng cách hai người.
“Ừ, cậu của anh là chuyên gia hương liệu, ông ấy đã kể về nó cho anh nghe.”
“Hoá ra thế. Riêng em lại thích hoa hồng Elina, anh từng nhìn thấy chúng bao giờ chưa?”
“Anh đã thấy một lần ở Pháp trong mùa lễ hội hoa hồng. Elina rất đẹp, nó cho người ta cảm giác yên bình và tĩnh lặng như chính sự hoà quyện tuyệt vời của sắc trắng tinh anh và sắc vàng thanh nhã.”
“Em cũng cho là thế. Không ngờ chúng ra có cùng suy nghĩ anh nhỉ? Em có trồng loại Elina đấy. Anh có muốn ghé qua biệt thự của em để xem chúng không? Còn có cả Just Joey, Peace và Queen Elizabeth.”
“Có dịp anh sẽ đến.”
Zenda khước từ khéo, Phalos nghe thôi đã rõ hiểu là Zenda không muốn đến. Cậu bé nghĩ sang một cách khác nhằm xoay chuyển sự nhàm chán của Zenda.
“Moonlight thì sao hả anh? Người ta vẫn hay tán tụng nó là nữ hoàng của hoa hồng trắng, vượt trên cả Pascali. Em hiếu kỳ nên cũng có mua giống này về trồng. Nhưng xem ra nó không đẹp lắm như đồn đại.”
“Anh có nghe về danh tiếng Moonlight, tiếc là chưa có dịp được xem.” - Zenda tò mò rời tay khỏi mấy cành hoa và quay sang Phalos. - “Anh sẽ đến biệt thự của em, khi nào thì em rảnh?”
“Bây giờ ạ.”
Câu trả lời của Phalos làm Zenda ngỡ ngàng:
“Em không phải đến tìm Krizu sao?”
“Ừ… thì… thì em cũng tìm anh ấy, tuy nhiên không quan trọng anh à. Chúng ta đi ngay đi.”
Phalos kéo tay Zenda gấp gáp, như thể chẳng cho cậu kịp có cơ hội phản đối.